Thời kỳ đầu Không_lực_Hải_quân_Đế_quốc_Nhật_Bản

Nguồn gốc

Tàu phóng thủy phi cơ Nhật Wakamiya

Ban đầu của Không lực hải quân Nhật Bản được thành lập vào năm 1912, với việc thành lập một Ủy ban nghiên cứu hàng không hải quân (Kaigun Kokūjutsu Kenkyōkai) thuộc thẩm quyền của Phòng kỹ thuật. Ủy ban đã được giao với việc thúc đẩy công nghệ hàng không và đào tạo cho hải quân. Ban đầu là tập trung vào những chiếc tàu bay không khí nhưng nó nhanh chóng chuyển sang phát triển những chiếc máy bay có cánh và máy bay có động cơ.[1] Năm đó, ủy ban quyết định mua máy bay có cánh của nước ngoài và cử sĩ quan trẻ ra nước ngoài để học cách bay và bảo trì chúng.[2]Hải quân đã mua hai thủy phi cơ từ nhà máy Glenn Curtiss ở Hammondsport, New York và hai thủy phi cơ Maurice Farman từ Pháp.[2]Để thiết lập một lớp cán bộ phi công và kỹ thuật viên, hải quân cũng cử ba sĩ quan đến Hammondsport và hai sĩ quan đến Pháp để được huấn luyện và hướng dẫn.[2]

Sau khi trở về Nhật Bản vào cuối năm 1912, hai trong số những phi công hải quân mới được huấn luyện đã thực hiện chuyến bay đầu tiên tại Oppama trên vịnh Yokosuka, một người bay chiếc trong thủy phi cơ Curtiss, người kia bay chiếc Maurice Farman.[3]

Năm 1912, Hải quân Hoàng gia Anh cũng đã chính thức thành lập binh chủng hàng không của riêng mình, Không lực hải quân Hoàng gia Anh. Các đô đốc Nhật, với việc Hải quân của họ được thành lập dựa trên mô hình Hải quân Hoàng gia Anh mà họ ngưỡng mộ, tự đề xuất thành lập không lực hải quân của riêng mình.

Hải quân Nhật Bản cũng đã quan sát sự phát triển kỹ thuật ở các nước khác và thấy rằng chiếc máy bay có tiềm năng. Trong vòng một năm, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã bắt đầu sử dụng máy bay. Năm 1913, năm sau, một tàu vận tải Hải quân, tàu Wakamiya Maru được chuyển thành tàu phóng thủy phi cơ có khả năng chở hai thủy phi cơ lắp ráp sẵn và hai thủy phi cơ rời.[3]Wakamiya cũng tham gia vào các cuộc diễn tập hải quân ngoài khơi Sasebo trong năm đó.

Cuộc vây hãm Thanh Đảo

Bài chi tiết: Trận Thanh Đảo
Ba tàu thủy phi cơ Maurice Farman của Nhật Bản.

Vào ngày 23 tháng 8 năm 1914, do kí hiệp ước với Vương quốc Anh, Nhật Bản tuyên chiến với Đức. Lực lượng Nhật, cùng với một lực lượng nhỏ của Anh,phong tỏa sau đó đã vây hãm thành thuộc địa Giao Châu của Đức và thủ đô hành chính của nó Thanh Đảo trên bán đảo Sơn Đông. Trong cuộc vây hãm, bắt đầu từ tháng Chín, bốn thủy phi cơ Maurice Farman (hai hoạt động và hai dự bị) trên tàu Wakamiya đã tiến hành các cuộc công kích và trinh sát các vị trí của tàu và cứ điểm Đức. Các chiếc máy bay này trang bị hệ thống nhắm bom thô sơ và chở từ sáu đến mười quả bom làm từ đạn pháo. Chúng được thả qua các ống kim loại gắn ở mỗi bên của buồng lái.[4]Vào ngày 5 tháng 9, trong chiến dịch thành công đầu tiên, hai chiếc máy bay Farman đã thả một số quả bom vào khu pháo Bismarck, pháo đài chính của Đức ở Thanh Đảo. Các quả bom rơi xuống một cách vô hại vào bùn, nhưng đội bay đã có thể xác nhận rằng SMS Emden không còn ở Thanh Đảo. Đây là thông minh tình báo có tầm quan trọng lớn đối với Bộ chỉ huy hải quân Đồng Minh.[4]

Vào ngày 30 tháng 9, Wakamiya đâm phải mìn và sau đó được đưa trở lại Nhật để sửa chữa. Nhưng các thủy phi cơ, bằng cách chuyển sang bờ, tiếp tục được sử dụng chống lại các lực lượng Đức cho đến khi họ đầu hàng vào ngày 7 tháng 11 năm 1914. Wakamiya đã tiến hành các cuộc không kích đầu tiên trong lịch sử thế giới[N 1] và có vai trò là tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.[N 2] Đến cuối cuộc bao vây đội bay Nhật đã tiến hành 50 phi vụ và thả 200 quả bom mặc dù thiệt hại cho phòng thủ của Đức là nhẹ.[6]

Phát triển sau đó (1916-1918)

Yokosuka Ro-go Ko-gata, chiếc thủy phi cơ đầu tiên được thiết kế và xây dựng tại Nhật.

Năm 1916, Ủy ban Nghiên cứu Hàng không Hải quân bị giải tán và ngân sách đã được tái phân bổ cho việc thành lập ba đơn vị hàng không hải quân (hikotai飛行隊), thuộc thẩm quyền của Cục Hải quân thuộc Bộ Hải quân. Đơn vị đầu tiên được thành lập tại Yokosuka vào tháng 4 năm 1916, nhưng việc thiếu một chính sách không quân hải quân cụ thể trong những năm đầu này đã được thể hiện rõ ràng khi Không đoàn Yokosuka chỉ hoạt động cùng với hạm đội mỗi năm duy nhất một lần khi họ được vận chuyển ngay lập tức đến bất cứ khu vực huấn luyện nào mà Hải quân Nhật lúc đó đang dùng để diễn tập.[3]

Mặc dù vậy, hàng không hải quân Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển. Năm 1917, các sĩ quan tại Quân xưởng Hải quân Yokosuka đã thiết kế và chế tạo thủy phi cơ đầu tiên của Nhật Bản, thủy phi cơ Ro-Go Ko-gata, hữu dụng hơn nhiều trên biển và an toàn hơn nhiều so với máy bay Maurice Farman mà hải quân sử dụng đến thời điểm đó.[3] Chiếc máy bay cuối cùng đã được sản xuất hàng loạt và trở thành trụ cột của cánh tay không quân của hải quân cho đến giữa những năm 1920. Các nhà máy Nhật Bản vào cuối cuộc chiến, với số lượng ngày càng tăng, đã bắt đầu phát triển và sản xuất động cơ và thân máy bay dựa trên thiết kế nước ngoài.[3]

Một đợt củng cố trong lực lượng không quân hải quân Nhật Bản là một phần của chương trình mở rộng hải quân năm 1918. Nó bao gồm việc hình thành nên một không đoàn mới và một đồn không quân hải quân tại Sasebo. Năm 1918, Hải quân Nhật chưng dụng vùng đất xung quanh hồ Kasumigauratỉnh Ibaraki, phía đông bắc Tokyo. Năm sau, một đồn không quân hải quân cho cả máy bay trên cạn và trên biển được thành lập, và ngay sau đó,việc huấn luyện không quân hải quân được chuyển đến Kasumigaura, từ Yokosuka. Sau khi thành lập một đơn vị huấn luyện không quân hải quân tại Kasumigaura, đồn không quân này trở thành trung tâm huấn luyện bay chính cho hải quân..[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Không_lực_Hải_quân_Đế_quốc_Nhật_Bản http://www.combinedfleet.com/kaigun.htm http://www.j-aircraft.com/ http://www.j-aircraft.com/captured/ http://www.warbirdpix.com/ http://www.globalsecurity.org/military/world/japan... http://www.j-aircraft.org/xplanes/ https://web.archive.org/web/20091027182301/http://... https://en.wikipedia.org/wiki/File:A_formation_of_... https://en.wikipedia.org/wiki/File:Aircraft_prepar... https://en.wikipedia.org/wiki/File:Akagi_Osaka.jpg